Trương Cam Vũ 張甘雨: lời bình

 

Trích dẫn:

Hán Dịch Kim Vân Kiều Nam Âm Thi Tập
Vĩ Hưng ấn quán, Sài Gòn, 1961 (*)






LỜI PHẨM BÌNH VỀ CUỐN
ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH


KIM VÂN KIỀU là một cuốn truyện tiểu thuyết phong tình, do ông Thanh Tâm Tài Nhân đời nhà Minh bên Trung Hoa soạn tập. So với những quyển Hồng Lâu Mộng, Tây Sương Ký, Hoa Nguyệt Ngân, Kim Bình Mai, v.v., thì cốt truyện đơn giản, văn bút kém phần linh hoạt, nên không thu hút được đại đa số độc giả. Bởi vậy, Hán văn nguyên bản ngày nay trong nước cũng như hải ngoại, hầu như đã thất truyền,

Nhưng từ khi trải qua ngọn bút của đại thi sĩ Nguyễn Du tiên sinh, dịch thành thơ nôm, gọi là ”Đoạn Trường Tân Thanh", thì cuốn truyện đó, đã ngang nhiên hùng bá Thi Đàn Việt Nam, và trở thành một tác phẩm không tiền khoảng hậu, một điệu thơ thiên niên bất hủ của nước Việt.

Điều đó đối với các đọc giả đông tây, nếu đã hiều biết tới văn nghệ Việt Nam, thì đều phải công nhận như vậy.

Cho nên từ khi Nguyễn Du tiên sinh tạ thế, thi tập này ra đời, hơn nửa thế kỷ nay, dần dần đã phổ biến khắp nước Việt, ai ai cũng biết tới và ngâm vịnh. Biết bao văn nhân thi sĩ có danh vị, tài ba, đã làm văn viết báo, khen ngợi và chú giải. Trong đó có ông Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Nguyễn Khắc Hiếu và Lê Văn Hòe, đã lần lượt giảng giải thi tập này; bằng Việt văn cùng Hán điền rất tường tận. Về phần Pháp văn, thì có ông Nguyễn Văn Vĩnh, và M. René Crayssac dịch thơ Kiều ra Pháp văn, và ông Trần Cửu Chấn chú giải chuyện Kiều bằng Pháp văn. Còn về Hán văn thì có ông Lý Văn Hùng, viết cuốn Kim Vân Kiều bình giảng (xuất bản năm 1955). Tới đây, cuốn truyện này có thể gọi là cùng chung đúc trong một lò văn hóa Hán Việt Đông Tây.

Vậy tác phẩm văn nghệ của Nguyễn Du tiên sinh, bởi lẽ gì trở nên một cái tên bất hủ, mà hậu thế tôn sùng đến thế ? Điều đó không lạ, cổ Nho có câu: "Văn tu cùng nhi hậu công, vật bất đắc kỳ bình tắc minh" (文須窮而後工, 物不得其平則鳴) văn chương gặp bước đường cùng mới hay, muôn vật gặp sự bất bình sẽ lên tiếng, Nguyễn Du tiên sinh với cái tài kinh quốc, với ngọn bút sinh hoa, dốc một lòng trung, trải hai trào đại, cảm khái sự tao ngộ, mượn đầu đề để tỏ bày tâm sự, mới đem cả cuốn truyện Kiều dịch thành thơ nôm lục bát, toàn tập gồm 3.254 câu, triền miên tê tái, quán xuyến một hơi, đoạn xót xa mỗi chữ một giọt máu, chỗ văn hoa mỗi câu một chuỗi ngọc.

Trong truyện, lấy Kiều làm vai chính. Tài sắc song toàn, tạo hóa trêu ngươi, hồng nhan bạc mệnh, đày đọa truân chiên. Ngoài ra những vai phụ, thì có Kim Trong phong lưu tuấn tú; Từ Hải lỗi lạc anh hùng; Mã Giảm Sinh hèn mạt bỉ ổi; Thúc Kỳ Tâm nhu nhược vô tài; còn như Sở Khanh cùng Bạc Hạnh, quỷ quyệt xảo trá, Hoạn Thư và Tú Bà cay nghiệt chua ngoa; Giác Duyên và Tam Hợp Thiền Sư thì thương xót nhân loại; quan lại cùng Ưng Khuyển tay sai, thì bòn hút dân chúng. Ngẫm kỹ, sự rèn câu dụng ý; tả thành họa sắc, thì người nào ra dáng kẻ đó, nhất cử nhất động, y hệt không sai, ý thì bay bướm như tiếng đàn, lưu loát như hành vân lưu thủy, trơn tru như giải áo trời không vết, văn chương đến thế, đáng khen là tột bậc rồi.

Truyện Kiều xưa kia nguyên là một cuốn tiểu thuyết theo áng văn xuôi, nay Nguyễn Du tiên sinh dịch ra thành một thiên thơ nôm dài đằng đặng, trong đó tự tình tả cảnh, nhân vật đối đáp, ý nghĩa phức tạp, nên câu văn và dùng chữ không khỏi có chỗ trùng điệp.

Xét ra truyện Kiều kết cấu đơn giản, nhưng ngụ ý rất sâu sắc, chỉ tả ông Vương viên ngoại với cái gia tư tầm thường, thân thế thanh bạch. Sinh vào lúc trào đại thanh bình, mà cũng bị tham quan nhũng lại bòn hút, đến nỗi hàm oan chịu tội, khiến cho nàng Kiều phải bán mình chuộc cha, gia đình ly tán, hồng nhan đày đọa, bao nỗi đắng cay, chỉ một đoạn đó, cũng đủ vạch rõ cho ta thấy nền chính trị của thời đại phong kiến lúc đó hủ bại đến mực nào. Thêm vào đó, những thái độ xảo trá của mụ giàu du côn, những hành động hung bạo của tay sai cửa quyền, bọn lưu manh hoành hành chẳng sợ sệt, phe nữ lưu bị đè nén dày xéo, càng thấy rõ sự tối tăm của xã hội thời đó, cho nên trong truyện tác giả lấy Từ Hải là một nhân vật lý tưởng, để cải cách sự hủ bại của xã hội phong kiến, lúc đầu vui thú thanh lâu, gặp gỡ nàng Kiều, anh hùng mỹ nhân, tri âm tương ngộ. Hành văn tới đó, thay đổi cả một điệu thơ bi đát, hóa thành hùng tráng du dương. Tả Từ Hải ra dáng một anh hùng hào kiệt; "kiếm đởm cầm tâm" (劍胆琴心) trong khi gã hoành tảo Chiết Giang, hùng cứ Hoa Nam, báo ân oán cho mỹ nhân, dẹp bất bình cho thiên hạ, thưởng phạt liêm chính, ân oán phân minh, thực hào hiệp vậy thay! Tới khi Từ Hải bị trúng kế chiêu an, yêu minh thành hạ, thúc giáp quy hàng, thì bị ám hại, dưới làn tên đạn như mưa, mà chàng vẫn đứng sững giữa trời, đến chết cũng không ngã gục. Thực hùng dũng biết bao!

Xét ra Nguyễn Du tiên sinh là một vị đại thần trong thời đại vua chúa, đối với một vị anh hùng thảo mãng trong một cuốn truyện, mà dám ca tụng quá đỗi như vậy, thực là một tác phong can đảm. 

Trong truyện, lấy quan niệm luân lý để khuyến khích thế tục. Đem định luật nhân quả để cảnh tỉnh ngu si, là những điểm hay của quyển sách này.

Vậy thì ông Thanh Tâm Tài Nhân soạn tập quyển "Truyện Kim Vân Kiều". Và ông Tố Như tiên sinh dịch thành "ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH". Tuy rằng Hoa Việt dị âm, nam bắc khác điệu, song đối với sự ngụ ý xa xôi, dụng tâm khắc khổ, thì có thể gọi là: khác giọng mà đều hay, cùng tiếng tơ đồng, cùng một cảm khái vậy.

Tôi đây một kẻ thiển học, tính thích thơ phú, nghề ngâm nga cũng võ vẽ hiểu biết đường lối, nay gặp lúc bang giao Hoa Việt thân thiện, nền văn hóa đông nam cần được sự giao lưu, nên tôi thấy áng văn bất hủ này cần phải dịch đi dịch lại, cho thêm phần tinh tuý; tôi không quản tài năng kém cỏi, đem tập thơ nôm của Nguyễn Du tiên sinh, dịch thành 812 bài thơ thất tuyệt, và một bài thơ thất luận theo Đường luật, và mỗi bài có phụ chú cách đọc Hán văn theo Việt âm, đặt tên là "Hán dịch Kim Vân Kiều nam âm thi tập".

Nguyên văn là tập thơ lục bát, nay dịch thành thơ Hán thất tuyệt, không khỏi có chỗ câu trên có thừa, mà câu dưới thì thiếu. Những điền tích tài liệu trong tập thơ đó, phần nhiều dẫn trong sách Hán văn, nhưng phương ngôn tục ngữ của dân tộc Hoa Việt vẫn không khỏi có chỗ khác nhau, nên dù sao cũng không dịch sát nghĩa theo nguyên văn hoàn toàn được. Mà chỉ mong mỗi câu đều theo định luật âm vận, và ý nghĩa nguyên văn, đã là sự cố gắng vậy.

Xét nguyên bản truyện Kiều, tất cả chia ra làm 20 hồi. Nhưng từ khi Nguyễn Du tiên sinh dịch thành thơ nôm, thì đã bỏ đi không dùng. Nay chúng tôi dịch thành thơ Hán, lại đem nguyên văn đặt từng hồi như truyện cũ, gọi là sửa chữa lại câu văn thêm thắt ít nhiều, chia ra từng đoạn mà đặt vào, gồm có 22 hồi, cho thêm phần rõ ràng. Hồi thứ nhất đặt là: "Mộng đào mà sanh, bạc mệnh triệu trưng hoa nửa úa! Tiếng đàn như oán, đoạn tràng phổ lựa khúc tân thanh". Sở dĩ có đề này là vì trong truyện cũ, mẹ cô Thúy Kiều tên là Hà Thị, nằm chiêm bao thấy ông Lão cho một cành đào, nửa nở nửa úa, mà sanh nàng, nhưng trong tập của Cụ Nguyễn chưa nhắc tới, nên tôi xin thêm vào cho toàn mỹ. Ngoài ra đoạn cuối cùng đặt thêm hồi thứ 22: "Nợ trước tiêu trừ, mượn gió mát trăng trong, phong trần gội sạch. Duyên xưa tái hợp, vui cuộc cờ đàn hát, cầm tất thanh cao" để cho đỡ trống. Ngoài ra những câu đặt đầu đề trong mỗi hồi, đều sửa chữa thêm thắt lại, cầu cho độc giả xem qua mỗi một đầu đề, cũng có thể hiểu rõ những sự cốt yếu xảy ra trong đoạn đó, với những ý nghĩa mệnh đề sâu sắc của tác giả.

Sau khi dịch xong tập thơ này, chúng tôi muốn tiếp theo chú giải Hán Việt Văn cho thêm phẫn tường tận, nhưng vì nhận thấy trước đây những học giả Việt Hoa đông tây, đối với thi tập của Nguyễn tiên sinh cũng đã giảng giải rất nhiều, vả lại công việc này phải hao tốn rất nhiều thời gian và tinh thần, mà chính dịch phẩm của chúng tôi cũng chưa dám chắc có giá trị phần nào đối với nền cổ học Hán Việt, nên xin tạm ngừng bút.

Đem cái tài thiển mọn của chúng tôi, dịch tập thơ bất hủ của Cụ Nguyễn, gồm những 3250 mấy câu, dịch thành ngoài 800 bài thơ chữ Hán, chắc không khỏi có chỗ lầm lẫn và sơ suất, kém phần công chỉnh, điều đó còn mong các vị Văn nhân, Thi sĩ, Nho giáo kỳ cựu, trong làng văn thơ Hoa Việt chỉ giáo cho chỗ hay dở của nó, đó là cả một sự may mắn của dịch giả nói riêng, mà cũng là cả một sự may mắn cho giới văn hóa Hoa Việt nói chung.

DỊCH GIẢ: ĐÔNG Y SĨ TRƯƠNG CAM VŨ
HIỆU AN MỆNH CƯ SĨ
BIỆT HIỆU TRI CƠ

Tân Sửu Niên Xuân năm 1961



Hán văn




, , 西, , , , , 

, , , 西, , , , , , , , , , , , , , , , ,  (René Crayssac) , 
...(), 西


, , , 

, , , , , , , , , , , 綿, , , , , , , , , , , , , , , 

, , , , , , , , , , , , , , , , 

, , , , , , 

, , , , , , , , , , , , , , , 

, , , , , , , , , , , , , , , , , , , , , 

, , , 

, , 

, , , 調, , , , 

, , , , , , , , , , , , , , , , , , , , , , , , , , , , , , , 

, , , , , , , , , 

, , , , 宿, , , , , , , 便, 

, , 西, , , , , , 

, , , , , , , , , , 

, 


Chú thích

(*) Sao chép nguyên văn sách của Trương Cam Vũ, các trang 17 đến 24, theo bản pdf hạ tải từ Nhà kho Quán Ven Đường (Huỳnh Chiếu Đẳng) http://ndclnh-mytho-usa.org/Nha-Kho_Quan-Ven-Duong.htm 
Chúng tôi chỉ sửa đổi vài sai sót ấn loát:
bản Hán văn: Nguyễn Hữu Vinh
bản Việt văn: Đặng Thế Kiệt
















Comments

Popular Posts