bẻ bai rủ rỉ tiếng tơ


Đây là câu thơ dòng 2851 trong đoạn mô tả Kim Trọng, mặc dù đã kết duyên với Thúy Vân, — thay chị giữ lời thề ước ngày xưa —, vẫn thương nhớ Kiều da diết khôn nguôi:

2849. Có khi vắng vẻ thư phòng,
2850. Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa.
2851. Bẻ bai rủ rỉ tiếng tơ,
2852. Trầm bay lạt khói gió đưa lay rèm.

Câu thơ 2851 này, trong một bản quốc ngữ cũ (trước 1974, năm in bản thứ nhất Từ điển Truyện Kiều), Đào Duy Anh còn ghi là:

Bẽ bài rầu rĩ tiếng tơ.

Nhưng sau đó, Đào Duy Anh đã sửa câu này theo y như hầu hết các bản quốc ngữ phổ biến xưa nay:

2851. Bẻ bai rủ rỉ tiếng tơ

Dưới đây, bàn về 2 chữ "bẻ bai" trong câu 2851 như đã ghi trên.

Ý nghĩa 2 chữ "bẻ bai" có nhiều chú giải khác nhau.

1. Lê Văn Hòe
chú thích # 2196 (trang 662): bẻ bai là buồn một cách chán nản uể oải.

2. Đàm Duy Tạo chú giải
câu 2851-2852: (Kim Trọng) cảm thấy tiếng đàn nghe ra buồn tẻ bẽ bàng, và khói trầm bốc lên có vẻ thoảng nhạt ít thơm, và hình như có hồn Kiều hóa gió bay vào làm lay động bức mành trước cửa.

3. Xem trong Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (Hà Nội, 1931):
bẻ bai: réo rắt; thí dụ: tiếng cầm tiếng sắt bẻ bai.

4. Tham khảo Hoàng Xuân Hãn (Chinh phụ ngâm bị khảo, Nhà xuất bản Minh Tân, 1953, Paris):
Đặng Trần Côn 鄧陳琨 (1710-1745): Non đông thấy lá hầu chất đống, Trĩ xập xòe mai cũng bẻ bai. Khói mù nghi ngút ngàn khơi, Con chim bạt gió lạc loài kêu thương (Chinh phụ ngâm khúc 征婦吟曲, Phan Huy Ích (1751-1822) dịch, câu 281-284). Câu "trĩ xập xòe mai cũng bẻ bai" dịch từ nguyên văn chữ Hán: tự phi thanh dã trĩ, tự vũ cách giang mai 自飛青野雉, 自舞隔江梅 nghĩa là: chim trĩ bay trên nội cỏ, cành mơ múa bên kia sông.
Và theo đó, câu thơ 2851 có thể hiểu như sau: tiếng đàn (của Kim Trọng nhớ tới Kiều) gảy lên nghe trầm bổng nhịp nhàng nhỏ nhẹ buồn rầu (cf. Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, in năm 1993, trang 32).

Cả 4 chú thích trên đây, xét ra không khác nhau cho lắm, đều rất có thể thích hợp với ý gốc của tác giả Nguyễn Du.

Xin chọn cách giải thích ngắn gọn và dễ hiểu nhất theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức:

bẻ bai = réo rắt

Chậm rãi đọc lại đoạn thơ này 2845-2856:

tranh Tôn Thất Đào (1910-1979)

2845. Khi ăn ở lúc ra vào,
2846. Càng âu duyên mới càng dào tình xưa.
2847. Nỗi nàng nhớ đến bao giờ,
2848. Tuôn châu đòi trận vò tơ trăm vòng.
2849. Có khi vắng vẻ thư phòng,
2850. Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa.
2851. Bẻ bai rủ rỉ tiếng tơ,
2852. Trầm bay lạt khói gió đưa lay rèm.
2853. Dường như bên chái trước thềm,
2854. Tiếng kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng.
2855. Bởi lòng tạc đá ghi vàng,
2856. Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây.

Và cảm nhận "nỗi tương tư của Kim Trọng sau những năm dài mất biệt tung tích Thúy Kiều" (*01).




Chú thích

(*01) Phạm Công Thiện, Nguyễn Du, đại thi hào dân tộc, trang 222, Viện Triết Lý Việt Nam và Triết Học Thế Giới, California USA, 1996.

Tham khảo








Comments

Popular Posts